Nguồn : https://pmc.ncbi.nlm.nih.gov/articles/PMC3296184/
Shilajit: A Natural Phytocomplex with Potential Procognitive Activity
Shilajit được tìm thấy trong đá vôi, đá biến chất và đá trầm tích (từ Proterozoic đến Đệ tứ) ở Trung Á, Tuva, tại Hồ Baikal, ở Kavkaz và các khu vực khác. Nó cũng được tìm thấy ở dãy Himalaya, Cao nguyên Tây Tạng, các ngọn núi của Bán đảo Ả Rập, Iran, Mông Cổ, Myanmar.
Mumio shilajit đã được biết đến và sử dụng trong y học cổ truyền trong hơn 4000 năm và chiếm vị trí uy tín nhất trong số các loại thuốc y học cổ truyền. Mumio là một chất giống như hắc ín màu nâu nhạt đến nâu đen được hình thành trong hơn một trăm năm từ đá khoáng và tàn tích thực vật.
Shilajit là một chất tự nhiên được hình thành trong nhiều thế kỷ do quá trình phân hủy dần dần của một số loại thực vật do tác động của vi sinh vật. Đây là một chất bổ sung chế độ ăn uống mạnh mẽ và rất an toàn, giúp khôi phục sự cân bằng năng lượng và có khả năng ngăn ngừa một số bệnh. Các cuộc điều tra gần đây chỉ ra một ứng dụng y tế thú vị để kiểm soát các rối loạn nhận thức liên quan đến lão hóa và kích thích nhận thức. Do đó, axit fulvic, nguyên tắc hoạt động chính, ngăn chặn sự tự kết tụ tau, mở ra một con đường hướng tới nghiên cứu liệu pháp điều trị bệnh Alzheimer. Về bản chất, đây là một sản phẩm dược phẩm có lợi ích đã được chứng minh đối với sức khỏe con người. Xem xét tác động dự kiến của việc sử dụng shilajit trong lĩnh vực y tế, đặc biệt là trong khoa học thần kinh, cần phải có nhiều cuộc điều tra hơn ở cấp độ sinh học cơ bản cũng như các thử nghiệm lâm sàng để hiểu cách các phân tử hữu cơ của shilajit và đặc biệt là axit fulvic, một trong những nguyên tắc hoạt động và oligoelements hoạt động ở cả cấp độ phân tử và tế bào và trong toàn bộ cơ thể.
Nguồn gốc hình thành shilajit
Khi xem xét thành phần độc đáo của nó như một phức hợp thực vật, rất giàu axit fulvic, các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng Shilajit được tạo ra bởi quá trình phân hủy vật liệu thực vật từ các loài như Euphorbia royleana và Trifolium repens [4, 5]. Quá trình phân hủy này dường như diễn ra trong nhiều thế kỷ và trên cơ sở này, shilajit được coi là sản phẩm hàng ngàn năm của tự nhiên. Tuy nhiên, các nghiên cứu sâu hơn đã xác định rằng một số sinh vật thực vật khác có thể tạo ra shilajit, chẳng hạn như nấm mốc như Barbula, Fissidens, Minium và Thuidium và các loài khác như Asterella, Dumortiera, Marchantia, Pellia, Plagiochasma và Stephenrencella-Anthoceros [4].
Shilajit chủ yếu bao gồm các chất humic, bao gồm axit fulvic, chiếm khoảng 60% đến 80% tổng hợp chất dinh dưỡng cộng với một số nguyên tố oligo bao gồm selen có đặc tính chống lão hóa [6, 7] (Hình 1). Các chất humic là kết quả của quá trình phân hủy chất hữu cơ, chủ yếu là các chất thực vật, là kết quả của hoạt động của nhiều vi sinh vật. Các thành phần được chia theo hoạt động thành humin, axit humic và axit fulvic theo độ hòa tan của chúng trong nước ở các mức pH khác nhau. Humin không tan trong nước trong bất kỳ điều kiện pH nào. Axit humic hòa tan trong nước trong điều kiện kiềm và có trọng lượng phân tử từ 5–10 kDa. Axit fulvic hòa tan trong nước trong các điều kiện pH khác nhau và do trọng lượng phân tử thấp (khoảng 2 kDa) nên nó được hấp thụ tốt trong đường ruột và đào thải khỏi cơ thể trong vòng vài giờ [8, 9]. Có khả năng là các đặc tính chữa bệnh có thể quy cho shilajit được cung cấp bởi hàm lượng axit fulvic đáng kể mà shilajit chứa, vì axit fulvic được biết đến với tác dụng chống oxy hóa mạnh [9] và có khả năng có tác dụng toàn thân như chất hoạt hóa bổ thể [10]. Các nghiên cứu gần đây về thành phần của Andes Shilajit ở Chile đã chứng minh chỉ số ORAC từ 50 đến 500 đơn vị Trolox/g vật liệu, cao hơn đáng kể so với Noni và quả việt quất (Quinteros et al., dữ liệu chưa công bố). Trong bối cảnh này, shilajit có vẻ là một phức hợp thực vật chống oxy hóa mạnh.
Shilajit, các thành phần chính và các ứng dụng tiềm năng dựa trên các đặc tính của axit fulvic. Phức hợp thực vật này được gọi là shilajit chủ yếu bao gồm các chất humic. Một trong số đó, axit fulvic, được biết đến với các đặc tính như chất chống oxy hóa, chống viêm và tăng cường trí nhớ. Các nghiên cứu mới chỉ ra rằng axit fulvic là một yếu tố chống kết tập của protein tau trong ống nghiệm [1], dự đoán axit fulvic là một phân tử chống bệnh Alzheimer tiềm năng.
Các phân tử khác có trong chế phẩm shilajit là axit eldagic, một số axit béo, nhựa, mủ cao su, kẹo cao su, albumin, triterpen, sterol, axit cacboxylic thơm, 3,4-benzocoumarin, axit amin, polyphenol và lipid phenolic [3, 6, 11]. Chắc chắn thành phần phân tử của nó thay đổi tùy theo từng vùng. Các nghiên cứu mới hơn dựa trên sắc ký loại trừ kích thước hiệu suất cao (HP-SEC) cho thấy shilajit chứa các loài phân tử cụ thể của polysaccharides và lignin [10]. Là thành phần humic, humin, axit humic và axit fulvic được tìm thấy trong tất cả các chế phẩm shilajit, là axit fulvic cuối cùng, hợp chất hoạt tính sinh học, cùng với dibenzo-α-pyrone, hoạt động như chất mang các chất khác
Shilajit là một thành phần quan trọng, được biết đến của y học Ayurvedic do đặc tính của nó như một rasayana. Trong bối cảnh này, các lợi ích sức khỏe như tăng tuổi thọ, trẻ hóa và ngăn chặn lão hóa đã được quy cho nó [3]. Theo truyền thống, shilajit được người dân Nepal và miền Bắc Ấn Độ sử dụng, và trẻ em thường uống nó với sữa vào bữa sáng. Người Sherpa tuyên bố rằng họ có shilajit như một phần trong chế độ ăn uống của họ; họ là một nhóm người đàn ông khỏe mạnh với tuổi thọ khỏe mạnh rất cao. Phòng thí nghiệm của chúng tôi đã tìm thấy bằng chứng về hoạt động cao của dạng shilajit Andean trong việc cải thiện các rối loạn nhận thức và là chất kích thích hoạt động nhận thức ở người [1] (Bảng 1).